Tòa án có được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi đương sự không có yêu cầu không? Nếu được thì áp dụng trong trường hợp nào?

Nếu đương sự không yêu cầu, thì Tòa án có được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không? Tôi có thắc mắc là nếu trong quá trình giải quyết vụ án mà đương sự hoặc những người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không có yêu cầu tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời thì tòa án có được áp dụng không? Nếu được thì sẽ áp dụng trong trường hợp nào?

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự?

Tại Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể là:

- Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.

- Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

- Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.

- Kê biên tài sản đang tranh chấp.

- Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.

- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.

- Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác.

- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ.

- Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.

- Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.

- Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ.

- Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình.

- Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu.

- Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.

- Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định.

Tòa án có được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi đương sự không có yêu cầu không?

Tòa án có được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi đương sự không có yêu cầu không?

Tòa án có được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi đương sự không có yêu cầu không?

Căn cứ theo Điều 135 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, được sửa đổi bởi Điều 55 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022 (Có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2023) quy định về việc tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau:

Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 14 Điều 114 của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Như vậy, khi thuộc một trong các trường hợp sau đây thì tòa án có thể tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:

- Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.

- Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

- Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.

- Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình.

Trước đây, Điều 135 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:

Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 114 của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Tòa án khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thì phải chịu trách nhiệm gì?

Theo Điều 113 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng cụ thể như sau:

(1) Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình; trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.

(2) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

- Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu;

- Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

- Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng.

(3) Việc bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 2 Điều này được thực hiện theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Như vậy, khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường trong những trường hợp quy định nêu trên.

MỚI NHẤT
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đinh Thị Ngọc Huyền Lưu bài viết
2,815 lượt xem
Tư vấn pháp luật mới nhất
TÌM KIẾM LIÊN QUAN

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào