Người lập di chúc trong tình trạng sức khỏe yếu nhưng không bị mất khả năng nhận thức thì việc lập di chúc này có hợp pháp không?

Mẹ tôi có lập di chúc cho tôi toàn bộ tài sản của bà. Tôi là chị hai, sau tôi là một đứa em trai đã thành niên. Việc lập di chúc có sự chứng kiến của bố tôi và hai chị em. Nội dung trong di chúc ghi rõ mẹ tôi đều đồng ý cho tôi toàn bộ tài sản. Tuy nhiên trong di chúc do sức khỏe mẹ tôi quá yếu không có khả năng kí và điểm chỉ (mẹ tôi không mất khả năng nhận thức) mà chỉ có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã. Vậy di chúc của mẹ tôi có hợp pháp hay không? Nếu hợp pháp thì di chúc sẽ có hiệu lực từ khi nào? Xin cảm ơn.

Người lập di chúc trong tình trạng sức khỏe yếu nhưng không bị mất khả năng nhận thức thì việc lập di chúc này có hợp pháp không?

Theo Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về di chúc hợp pháp:

- Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

- Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

- Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

- Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

Như vậy, tại thời điểm mẹ bạn lập di chúc dù sức khỏe yếu, không có khả năng ký và điểm chỉ, nhưng không mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi thì mẹ bạn có quyền được lập di chúc. Đồng thời việc lập di chúc được xuất phát từ chính nguyện vọng, mong muốn của mẹ bạn mà không phải do bị ép buộc, đe dọa.

Người lập di chúc trong tình trạng sức khỏe yếu nhưng không bị mất khả năng nhận thức thì việc lập di chúc này có hợp pháp không?

Người lập di chúc trong tình trạng sức khỏe yếu nhưng không bị mất khả năng nhận thức thì việc lập di chúc này có hợp pháp không?

Lập di chúc trong tình trạng sức khỏe yếu không có khả năng kí và điểm chỉ có hiệu lực pháp lý từ thời điểm nào?

Đối với người bị hạn chế về thể chất, nhằm bảo đảm quyền lợi của người lập di chúc, pháp luật đã quy định tại khoản 2 Điều 636 Bộ luật Dân sự 2015:

"2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng."

Đồng thời pháp luật cũng quy định cụ thể hơn về người làm chứng cho việc lập di chúc tại Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015:

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi."

Theo đó thì trong trường hợp của bạn, tại thời điểm mẹ bạn lập di chúc có sự chứng kiến của bố bạn, bạn và em trai bạn. Bởi vì bạn là người thừa kế theo di chúc, bố bạn là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì nghiễm nhiên em trai của bạn là người làm chứng cho việc lập di chúc. Em trai của bạn phải ký xác nhận trước mặt người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã. Đồng thời, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã sẽ chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Như vậy, di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm thời điểm mở thừa kế - thời điểm người lập di chúc chết và nó là di chúc hợp pháp và là di chúc cuối cùng mà người lập di chúc để lại trước khi chết.

Những trường hợp nào người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc?

Bên cạnh đó, tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc như sau:

- Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

+ Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

+ Con thành niên mà không có khả năng lao động.

- Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.

MỚI NHẤT
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

2,046 lượt xem
Tư vấn pháp luật mới nhất
TÌM KIẾM LIÊN QUAN

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào