Nếu vật chứng trong vụ án hành chính không thể mang đến phiên tòa thì việc xem xét vật chứng được thực hiện ra sao?
Nếu vật chứng trong vụ án hành chính không thể mang đến phiên tòa thì việc xem xét vật chứng được thực hiện ra sao?
Tại Điều 184 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định như sau:
Xem xét vật chứng
1. Vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét tại phiên tòa.
2. Hội đồng xét xử có thể cùng với các đương sự đến xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được nếu xét thấy cần thiết.
Theo đó, nếu vật chứng trong vụ án hành chính không thể mang đến phiên tòa thì hội đồng xét xử có thể cùng với các đương sự đến xem xét tại chỗ vật chứng.
Nếu vật chứng trong vụ án hành chính không thể mang đến phiên tòa thì việc xem xét vật chứng được thực hiện ra sao? (hình từ internet)
Ngoài vật chứng thì nguồn chứng cứ trong vụ án hành chính còn có thể lấy từ đâu?
Tại Điều 81 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định như sau:
Nguồn chứng cứ
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản xác nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
9. Văn bản công chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
Chiếu theo quy định này thì ngoài vật chứng thì nguồn chứng cứ trong vụ án hành chính còn có thể lấy từ những nguồn sau:
- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
- Lời khai của đương sự.
- Lời khai của người làm chứng.
- Kết luận giám định.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
- Kết quả định giá, thẩm định giá tài sản.
- Văn bản xác nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
- Văn bản công chứng, chứng thực.
- Các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
Vật chứng do đương sự tự thu thập có giá trị chứng cứ khi xét xử vụ án hành chính không?
Tại Điều 84 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định như sau:
Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
1. Đương sự có quyền tự mình thu thập chứng cứ bằng những biện pháp sau đây:
a) Thu thập tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, thông điệp dữ liệu điện tử;
b) Thu thập vật chứng;
c) Xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ án mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý;
đ) Yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người làm chứng;
e) Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không thể thu thập tài liệu, chứng cứ;
g) Yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản;
h) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các công việc khác theo quy định của pháp luật.
2. Trong các trường hợp do Luật này quy định, Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng cứ:
a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với người làm chứng;
c) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
d) Trưng cầu giám định;
đ) Quyết định định giá tài sản;
e) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ;
...
Chiếu theo quy định này thì đương sự có quyền tự mình thu thập chứng cứ trong vụ án hành chính.
Dẫn chiếu đến Điều 82 Luật Tố tụng hành chính 2015 có nêu về việc xác định chứng cứ như sau:
Xác định chứng cứ
1. Tài liệu đọc được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó.
3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác lưu trữ âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
...
Theo đó, nếu vật chứng do đương sự tự thu thập là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc thì vẫn có giá trị làm chứng cứ trong xét xử vụ án hành chính.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.