Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử ngữ văn lớp 7? Mục tiêu chung của Chương trình GDPT môn Ngữ Văn lớp 7 là gì?
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử ngữ văn lớp 7?
Các bài văn mẫu dưới đây hướng dẫn về: "Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử ngữ văn lớp 7?"
Bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử ngữ văn lớp 7 - Mẫu số 1
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền Năm 938, nước ta đứng trước mối đe dọa xâm lược từ quân Nam Hán. Lúc bấy giờ, Ngô Quyền – một vị tướng tài ba – đã đứng lên lãnh đạo nhân dân chống lại sự xâm lăng của kẻ thù để bảo vệ nền độc lập non trẻ của dân tộc. Ngô Quyền là người đất Đường Lâm (nay thuộc Hà Nội), nổi tiếng với tài thao lược và lòng yêu nước sâu sắc. Khi hay tin quân Nam Hán chuẩn bị xâm lược, Ngô Quyền đã nhanh chóng tổ chức lực lượng và lập kế hoạch chặn đứng ý đồ của kẻ thù. Ông chọn dòng sông Bạch Đằng, một địa thế hiểm trở, làm nơi quyết chiến. Ngô Quyền cho đóng cọc gỗ lớn dưới lòng sông, đầu cọc được bịt sắt nhọn. Ông tính toán thật kỹ, lợi dụng con nước thủy triều lên xuống để phục kích. Khi quân Nam Hán tiến vào cửa sông, Ngô Quyền cố tình cho quân ta rút lui để nhử địch vào sâu. Đến lúc thủy triều rút, bãi cọc hiện ra, tàu thuyền giặc mắc cạn, không thể thoát. Ngô Quyền lập tức phát lệnh phản công. Quân Nam Hán hoảng loạn, phần bị tiêu diệt, phần bị bắt sống. Trận chiến kết thúc với chiến thắng vang dội thuộc về dân tộc ta. Ngô Quyền đã đánh tan quân xâm lược, giữ vững độc lập cho đất nước và mở ra thời kỳ tự chủ lâu dài. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 không chỉ là một trang sử vẻ vang của dân tộc mà còn là minh chứng hùng hồn cho tài trí và lòng quả cảm của người anh hùng dân tộc – Ngô Quyền. Nhờ đó, người dân Việt Nam đã sống trong hòa bình và tự do, tự hào về một trang sử chói lọi mà tổ tiên để lại. |
Bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử ngữ văn lớp 7 - Mẫu số 2
Lời thề dựng nước của Lý Bí Năm 542, đất nước ta rơi vào cảnh loạn lạc dưới sự cai trị tàn bạo của nhà Lương. Trước tình hình đó, Lý Bí – một người yêu nước nồng nàn, chí lớn phi thường – đã đứng lên kêu gọi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, chống lại quân xâm lược. Lý Bí xuất thân trong một gia đình nghèo khó ở Thái Bình, nhưng ông sớm nổi tiếng là người thông minh, mưu trí. Chứng kiến cảnh dân chúng bị áp bức, bóc lột, ông nung nấu ý chí giải phóng đất nước. Lý Bí chiêu mộ những người cùng chí hướng, thành lập lực lượng nghĩa quân và phát động khởi nghĩa trên khắp cả nước. Trong một buổi họp mặt lớn tại vùng núi Tam Đảo, Lý Bí cùng các tướng sĩ đã dựng cờ thề, hứa quyết tâm vì sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm. Lời thề ấy vang lên mạnh mẽ: “Nếu không giành lại được độc lập cho dân tộc, ta thề không trở về!” Lời thề đầy hào khí ấy đã cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Lý Bí, chỉ trong vòng hơn một năm, nghĩa quân đã giành được nhiều thắng lợi lớn. Năm 544, Lý Bí chính thức lên ngôi, xưng là Lý Nam Đế và lập ra nước Vạn Xuân, thể hiện khát vọng xây dựng một đất nước trường tồn và hòa bình. Lý Bí là một tấm gương sáng về lòng yêu nước và ý chí kiên cường. Sự nghiệp của ông để lại bài học quý báu về tinh thần đoàn kết và khát vọng độc lập cho các thế hệ sau. Nước Vạn Xuân, dù không tồn tại lâu dài, nhưng đã mở đầu cho một giai đoạn phát triển mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. |
Bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử ngữ văn lớp 7 - Mẫu số 3
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – Bản hùng ca của dân tộc Năm 1954, trên mảnh đất Điện Biên Phủ, một sự kiện lịch sử đã làm chấn động toàn thế giới và đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một bản hùng ca bất diệt. Đó là chiến thắng Điện Biên Phủ – một thắng lợi vĩ đại dưới sự lãnh đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và quân đội nhân dân Việt Nam. Khi thực dân Pháp dựng cứ điểm Điện Biên Phủ với ý đồ biến nơi đây thành “pháo đài bất khả xâm phạm,” chúng không hề ngờ rằng, ý chí sắt đá và chiến lược thiên tài của người Việt Nam sẽ khiến kế hoạch đó sụp đổ hoàn toàn. Tháng 12 năm 1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận lệnh chỉ huy chiến dịch. Sau nhiều ngày đêm khảo sát địa hình, bàn bạc cùng các đồng đội, ông quyết định chọn phương châm “đánh chắc, tiến chắc.” Đây là một quyết định táo bạo, nhưng đầy chính xác, thể hiện tầm nhìn của một nhà quân sự kiệt xuất. Hàng vạn chiến sĩ đã tham gia vào chiến dịch với lòng quyết tâm cao độ. Những đoàn quân kéo pháo qua rừng, vượt núi, chịu đựng mưa rét và đói khát. Họ lặng lẽ làm việc dưới ánh trăng mờ, từng bước đưa những khẩu pháo khổng lồ vào vị trí chiến lược. Đó là cả một kỳ tích, minh chứng cho sức mạnh của ý chí con người. Ngày 13 tháng 3 năm 1954, trận chiến Điện Biên Phủ chính thức nổ ra. Quân ta tấn công vào các cứ điểm của Pháp với chiến lược chặt chẽ và bài bản. Hết ngày này qua ngày khác, các chiến sĩ vừa chiến đấu, vừa khắc phục những khó khăn không tưởng. Mỗi mét đất giành lại là máu và mồ hôi của biết bao con người. Đỉnh điểm là ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” của quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm chỉ huy của tướng De Castries. Cả chiến trường vỡ òa trong niềm vui chiến thắng. Thực dân Pháp buộc phải ký hiệp định Genève, rút quân khỏi Việt Nam, chấm dứt chế độ thực dân trên mảnh đất này. Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là chiến thắng của quân đội mà còn là chiến thắng của toàn dân tộc. Nó thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí tự do, và sức mạnh vượt khó của người Việt Nam. Điện Biên Phủ mãi mãi là một dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, để lại bài học lớn về lòng yêu nước và sự kiên cường. |
Bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử ngữ văn lớp 7 - Mẫu số 4
Trận Chi Lăng - Bẫy chông tiêu diệt giặc Minh Năm 1427, cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn bước vào giai đoạn quyết định. Khi ấy, quân Minh liên tục điều viện binh nhằm cứu vãn tình thế, nhưng chúng không ngờ rằng một trận đánh lịch sử tại ải Chi Lăng sẽ là dấu chấm hết cho tham vọng xâm lược của chúng. Chi Lăng là một thung lũng hẹp nằm giữa hai dãy núi đá sừng sững thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay. Đây là một vị trí hiểm yếu, được ví như “yết hầu” chặn đứng con đường từ biên giới tiến vào Thăng Long. Hiểu rõ địa hình này, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã vạch ra một kế hoạch táo bạo: sử dụng Chi Lăng làm bẫy chông, dụ địch vào để tiêu diệt hoàn toàn. Quân ta chuẩn bị kỹ lưỡng. Những hàng chông sắc nhọn được cắm đầy trên đường đi. Dưới chân núi, quân mai phục đã sẵn sàng. Trong khi đó, một đội quân nhỏ được lệnh giả vờ rút lui, nhử quân giặc lọt vào bẫy. Ngày 10 tháng 10 năm 1427, viện binh do Liễu Thăng chỉ huy từ biên giới tiến vào. Đoàn quân giặc với hàng vạn lính, kiêu ngạo và tự mãn, không hề hay biết mình đã lọt vào thế trận của ta. Khi chúng vừa tiến vào ải, quân ta từ bốn phía đột ngột tấn công. Trên núi, những tảng đá lớn lăn xuống, đè bẹp đội hình giặc. Dưới thung lũng, giáo mác, chông gai liên tục quét sạch từng hàng lính. Liễu Thăng – tướng chỉ huy quân Minh – bị phục kích và chém đầu ngay tại trận. Quân địch hoang mang, tháo chạy nhưng không thể thoát khỏi vòng vây của nghĩa quân. Toàn bộ viện binh bị tiêu diệt, khiến quân Minh mất hoàn toàn hy vọng chiếm lại nước ta. Trận Chi Lăng không chỉ là một chiến thắng quân sự mà còn là biểu tượng cho trí tuệ và lòng quả cảm của dân tộc Việt Nam. Nó cho thấy rằng, dù đối đầu với kẻ thù mạnh hơn nhiều lần, chỉ cần đoàn kết và chiến lược đúng đắn, chúng ta có thể giành thắng lợi vẻ vang. Chiến thắng Chi Lăng đã góp phần kết thúc kháng chiến chống Minh, mở ra thời kỳ hòa bình và tự chủ lâu dài. Tinh thần hào hùng ấy mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, một bài học lịch sử về sự đoàn kết và quyết tâm giữ gìn đất nước. |
*Lưu ý: Thông tin trên mang tính chất tham khảo
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử ngữ văn lớp 7?
Học sinh lớp 7 có quyền và nhiệm vụ gì?
Theo căn cứ tại Điều 34, Điều 35 Điều lệ ban hành kèm theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT có nêu rõ quyền và nhiệm vụ của học sinh lớp 6 như sau:
- Nhiệm vụ của học sinh
+ Thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường.
+ Kính trọng cha mẹ, cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường và những người lớn tuổi; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, rèn luyện; thực hiện điều lệ, nội quy nhà trường; chấp hành pháp luật của Nhà nước.
+ Rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân.
+ Tham gia các hoạt động tập thể của trường, của lớp học, của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; giúp đỡ gia đình, tham gia lao động và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi trường, thực hiện trật tự an toàn giao thông.
+ Giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường, nơi công cộng; góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy truyền thống của nhà trường.
- Quyền của học sinh
+ Được bình đẳng trong việc hưởng thụ giáo dục toàn diện, được bảo đảm những điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất, vệ sinh, an toàn để học tập ở lớp và tự học ở nhà, được cung cấp thông tin về việc học tập, rèn luyện của mình, được sử dụng trang thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động học tập, văn hóa, thể thao của nhà trường theo quy định.
+ Được tôn trọng và bảo vệ, được đối xử bình đẳng, dân chủ, được quyền khiếu nại với nhà trường và các cấp quản lý giáo dục về những quyết định đối với bản thân mình; được quyền chuyển trường khi có lý do chính đáng theo quy định hiện hành; được học trước tuổi, học vượt lóp, học ở tuổi cao hơn tuổi quy định theo Điều 33 Điều lệ ban hành kèm theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT
+ Được tham gia các hoạt động nhằm phát triển năng khiếu về các môn học, thể thao, nghệ thuật do nhà trường tổ chức nếu có đủ điều kiện.
+ Được nhận học bổng hoặc trợ cấp khác theo quy định đối với những học sinh được hưởng chính sách xã hội, những học sinh có khó khăn về đời sống và những học sinh có năng lực đặc biệt.
+ Được chuyển trường nếu đủ điều kiện theo quy định; thủ tục chuyển trường thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
+ Được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Mục tiêu chung của Chương trình GDPT môn Ngữ Văn lớp 7 là gì?
Căn cứ theo tiểu mục 1 Mục III Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT về Chương trình môn Ngữ Văn nêu rõ mục tiêu chung như sau:
- Hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính. Môn Ngữ văn giúp học sinh khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế.
- Góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe; có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hoá; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống.
Theo đó, mục tiêu chung của Chương trình GDPT môn Ngữ Văn lớp 7 như trên.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.