Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau ngắn gọn nhất chọn lọc? Dàn ý phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau? Đặc điểm môn Văn?
Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau ngắn gọn nhất chọn lọc?
Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau ngắn gọn nhất chọn lọc như sau:
Trần Tế Xương, hay còn gọi là Tú Xương, là một trong những nhà thơ trào phúng nổi tiếng của văn học Việt Nam. Ông thường dùng thơ để phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội. Bài thơ "Năm mới chúc nhau" là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách trào phúng của ông, với những lời chúc Tết mang tính châm biếm sâu cay. Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi những thói hư tật xấu và sự suy đồi đạo đức trở nên phổ biến. Đây là thời kỳ mà xã hội Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của chế độ thực dân, phong kiến, dẫn đến nhiều bất công và thối nát. Bốn câu thơ đầu: Năm mới chúc nhau cái sự sang, Cái giàu, cái đẹp, cái khôn ngoan. Chúc cho lắm kẻ mua quan tước, Chúc cả những người học chẳng màng. Trong bốn câu thơ đầu, tác giả mỉa mai những người trưởng giả học làm sang, biến tấu câu chúc quen thuộc thành lời châm biếm. Những lời chúc "cái sự sang", "cái giàu", "cái đẹp", "cái khôn ngoan" đều là những giá trị vật chất và hình thức, phản ánh sự thực dụng và giả dối trong xã hội. Bốn câu thơ tiếp theo: Chúc cho lắm kẻ mua quan tước, Chúc cả những người học chẳng màng. Chúc cho lắm kẻ làm quan lớn, Chúc cả những người chẳng học hành. Tác giả châm biếm những kẻ không có tài cán nhưng vẫn mua được chức quan cao, thể hiện sự thối nát của quan trường. Những lời chúc này không chỉ là sự mỉa mai mà còn là lời tố cáo mạnh mẽ về sự bất công và tham nhũng trong xã hội. Bốn câu thơ tiếp: Chúc cho lắm kẻ làm quan lớn, Chúc cả những người chẳng học hành. Chúc cho lắm kẻ giàu sang phú quý, Chúc cả những người chẳng học hành. Tác giả mỉa mai thái độ của bọn quan lại khi "mừng nhau cái sự giàu" hay "mừng nhau lắm sự sinh con", tạo nên khung cảnh hỗn loạn và hài hước. Những lời chúc này phản ánh sự suy đồi đạo đức và lối sống thực dụng của một bộ phận không nhỏ trong xã hội. Bốn câu thơ cuối: Chúc cho lắm kẻ giàu sang phú quý, Chúc cả những người chẳng học hành. Chúc cho lắm kẻ làm quan lớn, Chúc cả những người chẳng học hành. Những lời chúc Tết tưởng chừng bình thường nhưng lại mang ý nghĩa châm biếm, phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội. Tác giả sử dụng những lời chúc để lột tả sự giả dối và thối nát của xã hội đương thời. Tú Xương sử dụng ngôn ngữ trào phúng một cách tài tình, biến những lời chúc Tết thông thường thành những câu châm biếm sâu cay. Sự đối lập giữa hình thức và nội dung của những lời chúc tạo nên hiệu ứng hài hước nhưng cũng đầy chua chát. Các hình ảnh và biểu tượng trong bài thơ đều mang tính châm biếm, từ "cái sự sang", "cái giàu", "cái đẹp", "cái khôn ngoan" đến "lắm kẻ mua quan tước", "lắm kẻ làm quan lớn". Những hình ảnh này không chỉ phản ánh thực trạng xã hội mà còn là những lời tố cáo mạnh mẽ về sự suy đồi đạo đức. Giọng điệu của bài thơ là giọng điệu châm biếm, mỉa mai nhưng cũng đầy chua xót. Tú Xương không chỉ phê phán xã hội mà còn thể hiện sự bất lực và đau đớn trước những thói hư tật xấu đang lan tràn. Bài thơ "Năm mới chúc nhau" của Tú Xương không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn là một lời cảnh tỉnh về đạo đức và lối sống. Qua bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được sự sâu sắc trong ngòi bút của Tú Xương và rút ra bài học cho bản thân về việc sống đúng đắn và tránh xa những thói hư tật xấu. |
Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau ngắn gọn nhất tham khảo như trên.
Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau ngắn gọn nhất chọn lọc? Dàn ý phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau? Đặc điểm môn Văn? (Hình từ Internet)
Dàn ý phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau?
Dàn ý phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau như sau:
Mở bài: • Giới thiệu về tác giả: Trần Tế Xương là một nhà thơ nổi tiếng với phong cách trào phúng, thường dùng thơ để phê phán những bất công và thói hư trong xã hội. • Giới thiệu về bài thơ: "Năm mới chúc nhau" là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách này, với những lời chúc Tết mang tính châm biếm. Thân bài: Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi những thói hư tật xấu và sự suy đồi đạo đức trở nên phổ biến. Phân tích nội dung: • Bốn câu thơ đầu: Tác giả mỉa mai những người trưởng giả học làm sang, biến tấu câu chúc quen thuộc thành lời châm biếm. • Bốn câu thơ tiếp theo: Châm biếm những kẻ không có tài cán nhưng vẫn mua được chức quan cao, thể hiện sự thối nát của quan trường. • Bốn câu thơ tiếp: Mỉa mai thái độ của bọn quan lại khi "mừng nhau cái sự giàu" hay "mừng nhau lắm sự sinh con", tạo nên khung cảnh hỗn loạn và hài hước. • Bốn câu thơ cuối: Những lời chúc Tết tưởng chừng bình thường nhưng lại mang ý nghĩa châm biếm, phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội. Kết bài: • Khẳng định giá trị: Bài thơ không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn là một lời cảnh tỉnh về đạo đức và lối sống. • Cảm nhận cá nhân: Sau khi đọc bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được sự sâu sắc trong ngòi bút của Tú Xương và rút ra bài học cho bản thân về việc sống đúng đắn và tránh xa những thói hư tật xấu. |
Đặc điểm môn Ngữ Văn trong chương trình giáo dục phổ thông thế nào?
Căn cứ theo Mục I Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT về Chương trình môn Ngữ Văn có nêu rõ đặc điểm môn Ngữ Văn trong chương trình giáo dục phổ thông như sau:
Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực Giáo dục ngôn ngữ và văn học, được học từ lớp 1 đến lớp 12. Ở cấp tiểu học, môn học này có tên là Tiếng Việt; ở cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông có tên là Ngữ văn.
Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn; giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,...
Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, môn Ngữ văn có vai trò to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời.
Nội dung môn Ngữ văn mang tính tổng hợp, bao gồm cả tri thức văn hoá, đạo đức, triết học,... liên quan tới nhiều môn học và hoạt động giáo dục khác như Lịch sử, Địa lí, Nghệ thuật, Giáo dục công dân, Ngoại ngữ, Tự nhiên và Xã hội, Hoạt động trải nghiệm, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp,… Môn Ngữ văn cũng liên quan mật thiết với cuộc sống; giúp học sinh biết quan tâm, gắn bó hơn với đời sống thường nhật, biết liên hệ và có kĩ năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Nội dung cốt lõi của môn học bao gồm các mạch kiến thức và kĩ năng cơ bản, thiết yếu về tiếng Việt và văn học, đáp ứng các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh ở từng cấp học; được phân chia theo hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp.
Giai đoạn giáo dục cơ bản: Chương trình được thiết kế theo các mạch chính tương ứng với các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Kiến thức tiếng Việt và văn học được tích hợp trong quá trình dạy học đọc, viết, nói và nghe. Các ngữ liệu được lựa chọn và sắp xếp phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh ở mỗi cấp học.
Mục tiêu của giai đoạn này là giúp học sinh sử dụng tiếng Việt thành thạo để giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống và học tập tốt các môn học, hoạt động giáo dục khác; hình thành và phát triển năng lực văn học, một biểu hiện của năng lực thẩm mĩ; đồng thời bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm để học sinh phát triển về tâm hồn, nhân cách.
Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp: Chương trình củng cố và phát triển các kết quả của giai đoạn giáo dục cơ bản, giúp học sinh nâng cao năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học, nhất là tiếp nhận văn bản văn học; tăng cường kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận, văn bản thông tin có độ phức tạp hơn về nội dung và kĩ thuật viết; trang bị một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc và viết về văn học; tiếp tục bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tâm hồn, nhân cách để học sinh trở thành người công dân có trách nhiệm.
Ngoài ra, trong mỗi năm, những học sinh có định hướng khoa học xã hội và nhân văn được chọn học một số chuyên đề học tập. Các chuyên đề này nhằm tăng cường kiến thức về văn học và ngôn ngữ, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đáp ứng sở thích, nhu cầu và định hướng nghề nghiệp của học sinh.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.