Mức lương cấp bậc quân hàm cơ yếu từ ngày 1/7/2024 theo Nghị quyết 27 thay đổi như thế nào?
Mức lương cấp bậc quân hàm cơ yếu hiện nay là bao nhiêu?
Căn cứ Bảng lương cấp bậc quân hàm sĩ quan và cấp hàm cơ yếu được quy định tại Bảng 1 Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư 41/2023/TT-BQP như sau:
SỐ TT | ĐỐI TƯỢNG | HỆ SỐ | MỨC LƯƠNG THỰC HIỆN từ 01/7/2023 |
1 | Cấp hàm cơ yếu bậc 10 | 9,20 | 16.560.000 |
2 | Cấp hàm cơ yếu bậc 9 | 8,60 | 15.480.000 |
3 | Cấp hàm cơ yếu bậc 8 | 8,00 | 14.400.000 |
4 | Cấp hàm cơ yếu bậc 7 | 7,30 | 13.140.000 |
5 | Cấp hàm cơ yếu bậc 6 | 6,60 | 11.880.000 |
6 | Cấp hàm cơ yếu bậc 5 | 6,00 | 10.800.000 |
7 | Cấp hàm cơ yếu bậc 4 | 5,40 | 9.720.000 |
8 | Cấp hàm cơ yếu bậc 3 | 5,00 | 9.000.000 |
9 | Cấp hàm cơ yếu bậc 2 | 4,60 | 8.280.000 |
10 | Cấp hàm cơ yếu bậc 1 | 4,20 | 7.560.000 |
Theo đó, cấp bậc quân hàm cơ yếu sẽ được nhận mức lương theo cấp bậc quân hàm dao động từ 7.560.000 đồng/tháng cho đến 16.560.000 đồng/tháng.
Mức lương cấp bậc quân hàm cơ yếu từ ngày 1/7/2024 theo Nghị quyết 27 thay đổi như thế nào? (Hình từ Internet)
Mức lương cấp bậc quân hàm cơ yếu từ ngày 1/7/2024 theo Nghị quyết 27 thay đổi như thế nào?
Tại phiên bế mạc Diễn đàn kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2023 diễn ra vào ngày 19/09, Chủ tịch Quốc hội đã nhấn mạnh đến việc sớm thực hiện cải cách tiền lương một cách căn bản trong năm 2024; gợi ý thời điểm cải cách tiền lương có thể áp dụng ngay từ ngày 01/7/2024 nếu không có gì thay đổi.
Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018 về cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp đã đề ra các mục tiêu cụ thể trong việc cải cách tiền lương cũng như các chính sách liên quan; trong đó có nội dung về việc cải cách tiền lương quân đội.
Cụ thể, Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018 nêu rõ: Xây dựng 3 bảng lương đối với lực lượng vũ trang, gồm:
- 01 bảng lương sĩ quan quân đội, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ công an (theo chức vụ, chức danh và cấp bậc quân hàm hoặc cấp hàm);
- 01 bảng lương quân nhân chuyên nghiệp, chuyên môn kỹ thuật công an.
- 01 bảng lương công nhân quốc phòng, công nhân công an (trong đó giữ tương quan tiền lương của lực lượng vũ trang so với công chức hành chính như hiện nay).
Về nội dung cải cách cụ thể theo Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018, lương quân đội sẽ được tính theo số tiền cụ thể theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, bảo đảm tương quan với tiền lương trên thị trường lao động và có cơ cấu tiền lương gồm:
Lương quân đội = Lương cơ bản (70% tổng quỹ lương) + phụ cấp (30% quỹ lương). Bổ sung thêm tiền thưởng, chiếm khoảng 10% quỹ tiền lương của năm, không bao gồm phụ cấp.
Ngoài ra, trong cải cách tiền lương có nội dung sẽ bãi bỏ hệ số lương và mức lương cơ sở.
Như vậy, cấp bậc quân hàm cơ yếu sẽ được xây dựng bảng lương mới, trong đó phải giữ tương quan tiền lương giữa lực lượng vũ trang với công chức hành chính hiện nay.
Đồng thời, Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018 cũng có nhiều điều chỉnh về phụ cấp của đối tượng lực lượng vũ trang, như sau: Bãi bỏ phụ cấp chức vụ lãnh đạo (do các chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị thực hiện xếp lương chức vụ); phụ cấp công tác đảng, đoàn thể chính trị - xã hội; phụ cấp công vụ (do đã đưa vào trong mức lương cơ bản); phụ cấp độc hại, nguy hiểm (do đã đưa điều kiện lao động có yếu tố độc hại, nguy hiểm vào phụ cấp theo nghề).
Tại sao lại có sự thay đổi mức lương cấp bậc quân hàm cơ yếu từ ngày 1/7/2024 theo Nghị quyết 27?
Mặc dù chính sách tiền lương hiện tại đã đạt được nhiều kết quả song vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018 đã nêu rất rõ những bất cập này:
- Chính sách tiền lương trong khu vực công còn phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo; còn mang nặng tính bình quân, không bảo đảm được cuộc sống, chưa phát huy được nhân tài, chưa tạo được động lực để nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của người lao động.
- Quy định mức lương cơ sở nhân với hệ số không thể hiện rõ giá trị thực của tiền lương.
- Có quá nhiều loại phụ cấp, nhiều khoản thu nhập ngoài lương do nhiều cơ quan, nhiều cấp quyết định bằng các văn bản quy định khác nhau làm phát sinh những bất hợp lý, không thể hiện rõ thứ bậc hành chính trong hoạt động công vụ.
- Chưa phát huy được quyền, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc đánh giá và trả lương, thưởng, gắn với năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
Những hạn chế, bất cập nêu trên có nguyên nhân khách quan từ nội lực nền kinh tế còn yếu, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; tích luỹ còn ít, nguồn lực nhà nước còn hạn chế... nhưng đến từ nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Việc thể chế hoá các chủ trương của Đảng về chính sách tiền lương còn chậm, chưa có nghiên cứu căn bản và toàn diện về chính sách tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng kềnh; chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao. Số đơn vị sự nghiệp công lập tăng nhanh, số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước còn quá lớn.
Việc xác định vị trí việc làm còn chậm, chưa thực sự là cơ sở để xác định biên chế, tuyển dụng, đánh giá cán bộ, công chức, viên chức và trả lương.
Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, hệ thống thông tin thị trường lao động, tiền lương, năng lực thương lượng về tiền lương của người lao động trong ký kết hợp đồng lao động và vai trò của tổ chức công đoàn trong các thoả ước lao động tập thể còn hạn chế.
Công tác hướng dẫn, tuyên truyền về chính sách tiền lương chưa tốt, dẫn đến việc xây dựng và thực hiện một số chính sách còn chưa tạo được đồng thuận cao.