nhân không đạt được.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng
Chào luật sư! Em sinh năm 1983, hiện đang sinh sống tại thành phố vũng tàu. em đang rất cần sự tư vấn của luật sư! em kế hôn cùng chồng em là anh đỗ văn tuyên sinh năm 1980 vào đầu năm 2005 và chúng em có với nhau một cháu trai là cháu Đỗ đình Trúc sinh vào tháng 09 năm 2005, Thời gian đầu chúng em sống rất
đơn yêu cầu, tòa án sẽ ra quyết định mở phiên họp xem xét có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
Sau khi có quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự của tòa, mới tiến hành nộp đơn yêu cầu ly hôn. Trong trường hợp này bố mẹ sẽ đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết
thuẫn đến năm 2015 thì chồng tôi anh A làm đơn li hôn và tòa án đã xét xử việc li hôn của vợ chồng tôi trong đó đứa con trai sinh năm 2011 được tòa giao cho tôi nuôi và chồng tôi anh A có nghĩa vụ là trợ cấp tiền nuôi con đến năm 18 tuổi. Nhưng đến nay tôi chưa nhận được tiền nuôi con từ cha của con tôi. Và tôi nghe cha của con tôi nói là chỉ cần tôi
thời hạn 20 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố mất tích, tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm chồng chị trên các phương tiện thông tin đại chúng. 15 ngày sau khi hết thời hạn 4 tháng kể từ ngày đăng, phát thông báo, tòa án sẽ mở phiên họp xét đơn của chị. Nếu đủ căn cứ, tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố chồng chị mất tích. Sau đó, chị có
chặn, quyết định kháng nghị theo hướng có tội khi Tòa tuyên bố không phạm tội, kiểm sát viên luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử kết án người không có tội… Các quyết định này chỉ là những hành vi tố tụng trong quá trình tiến hành tố tụng chứ không phải là hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự.
Vì vậy, nếu những người có thẩm quyền biết rõ
trị 100 triệu đồng thì bị phát hiện. Những người này sẽ bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (điểm c hoặc điểm e).
Ví dụ 2: Một người đã bị xử phạt 6 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" chưa được xoá án tích mà lại phá khoá cửa vào nhà của người khác với ý thức có tài sản gì thì lấy trộm tài sản đó, nhưng chưa lấy
tố tụng để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử), tình trạng án tích được ghi như sau:
a) Người không bị kết án ghi là “không có án tích”;
b) Người đã bị kết án sẽ ghi đầy đủ án tích đã được xoá, thời điểm được xoá án tích và án tích chưa được xóa, ngày, tháng, năm tuyên án, số bản án, toà đã tuyên bản án, tội danh, điều khoản luật được áp
Vào năm 2005, anh tôi bị tạm giữ tại công an huyện về hành vi “Cố ý gây thương tích”, thời gian tạm giam là 12 tháng, khi Toà án đưa ra xét xử và tuyên cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 21 tháng được tính từ ngày tuyên án. Xin cho biết: Thời gian xoá án được tính từ thời điểm nào? Có được quy đổi thời gian tạm giam để trừ vào thời gian thử
có lợi hơn cho người bị kết án so với Bộ luật hình sự năm 1985 (thời điểm bạn phạm tội và bị xét xử).
Điều 64 của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định các trường hợp đương nhiên được xóa án tích:
1. Người được miễn hình phạt.
2. Người bị kết án không phải về các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia hoặc về tội phạm chống phá hòa bình, chống
Vào năm 2010, anh tôi bị tạm giữ tại công an huyện về hành vi “Cố ý gây thương tích”, thời gian tạm giam là 12 tháng, khi Toà án đưa ra xét xử và tuyên cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 21 tháng được tính từ ngày tuyên án. Xin cho biết: Thời gian xoá án được tính từ thời điểm nào? Có được quy đổi thời gian tạm giam để trừ vào thời gian thử
Bộ Giáo dục quy định người trong thời kỳ thi hành án hình sự không được dự tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy.
Tại điểm b khoản 2 Điều 5 Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy, quy định: “Những người không đủ các điều kiện và những người thuộc diện dưới đây không được dự thi: trong thời kỳ thi hành án hình sự
bổ sung được tính đối với người được hưởng án treo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 1 ngày 18-10-1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo mà có hình phạt bổ sung. Hướng dẫn này, theo chúng tôi vẫn còn phù hợp với thực tiễn xét xử và những quy định về án treo tại Điều 60 Bộ luật hình sự
bị xử phạt 3 năm tù nhưng chỉ phải thử thách một năm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử, thông thường các Tòa án ấn định thời gian thử thách gấp đôi thời gian của hình phạt tù.
Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 1/HĐTP ngày 18/10/1990, thì thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án
Tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự: “ Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”
a) Về hình phạt
Người bị kết án có thể được hưởng án treo
:
“1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
…
5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách
năm, không phân biệt về tội gì;
Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo.
b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân
Chào Luật sư! Anh họ tôi là lái xe container chạy tuyến Bắc - Nam. Ngày 02/10/2010 khi đang lưu thông trên QL 1A thuộc địa phận tỉnh Bình Thuận, do không làm chủ được tốc độ nên đã đụng vào một người chạy xe máy cùng chiều làm người này chết tại chỗ. Theo kết luận điều tra của cảnh sát giao thông thì phần lỗi hoàn toàn thuộc về anh tôi. Công ty
Chào bạn!
1.Theo bạn kể thì chắc là bạn bị truy tố theo khoản 2 Điều 133 BHLS với khung hình phạt từ 7-15 năm tù. Như vậy bản án tuyên bạn 5 năm tù là xử dưới khung (áp dụng khung liền kề-khoản 1) và được coi là tương đối nhẹ so với điều khoản bị truy tố. Về nguyên tắc, có tình tiết giảm nhẹ TNHS mới thì tòa phúc thẩm sẽ xem xét để có thể