Cho tôi hỏi về việc chứng thực sổ hộ khẩu. Trường hợp 1 sổ hộ khẩu khi phô ra 3 tờ, 6 trang ở xã A cán bộ tư pháp đóng dấu ở mỗi trang nhưng ghi 1 số, 1 ngày, còn ở xã B cán bộ tư pháp xã cũng đóng dấu mỗi trang nhưng ghi sáu số, 1 ngày. Như vậy thì trường hợp nào đúng?
thẩm quyền và trách nhiệm:
a) Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt;
b) Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt.
Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chứng thực các việc theo quy định tại khoản 2 Điều này và đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã.
4. Thẩm quyền
, văn bản bằng tiếng Việt;
b) Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt.
Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chứng thực các việc theo quy định tại khoản 2 Điều này và đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã.
......
4. Thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính, chữ ký quy định tại Điều này
Giấy tờ, văn bản có được chứng thực bản sao từ bản chính hay không phụ thuộc vào 2 điều kiện:
- Giấy tờ, văn bản đó có phải bản chính hay không , căn cứ vào khoản 1 Điều 2 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP: “Bản chính” là bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp lần đầu tiên có giá trị pháp lý để sử dụng, là cơ sở để đối chiếu và chứng thực bản
, trừ việc chứng thực chữ ký người dịch;”
Căn cứ theo các quy định trên thì Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và UBND cấp xã có quyền chứng thực chữ ký. Tuy nhiên, UBND cấp xã không có thẩm quyền chứng thực chữ ký người dịch.
Anh Đăng (sn 12/01/1980) và chị Vân (sn 03/07/1981) sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2004 tại phường 5, quận 6 thành phố TH nhưng không đăng ký kết hôn. Năm 2005, hai anh chị có với nhau một con chung. Tính đến năm 2013, hai người có khối tài sản chung trị giá 800 triệu đồng (do chị Vân quản lý). Đầu năm 2013, quan hệ giữa anh Đăng và
Về việc này, Phó Chủ tịch UBND phường Thanh Xuân Bắc Phạm Thanh Nam cho biết: Trong thời gian qua, UBND phường đã nhận được nhiều yêu cầu chứng thực chữ ký và chứng thực giấy bán, tặng, cho xe cá nhân của người dân.
Mặc dù cán bộ UBND phường đã giải thích cho người dân về việc có sự thay đổi, bổ sung điểm 3.1.7, khoản 3 điều 7, thông tư số
Theo Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, thì thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực của các cơ quan được quy định như sau:
1. Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Phòng Tư pháp) có thẩm quyền và
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu”.
- Lệ phí cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất: Theo quy định tại Thông tư số 106/2010/TT-BTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nuôi của người chết (trong đó có em vợ và vợ bạn).
* Công chứng văn bản thừa kế.
- Cơ quan tiến hành: Bất kỳ tổ chức công chứng nào trên địa bàn tỉnh, thành phố nơi có bất động sản.
- Bộ hồ sơ yêu cầu công chứng gồm:
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
+ Giấy chứng tử của mẹ vợ bạn;
+ Quyết định của tòa án tuyên bố một
người có đất trưng dụng tự nguyện tặng cho Nhà nước thì làm thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
3. Trách nhiệm xác định mức bồi thường thiệt hại do thực hiện trưng dụng đất gây ra theo quy định sau đây:
a) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi có đất trưng dụng chịu trách nhiệm xác định mức bồi thường thiệt hại do
dừng hưởng lương hưu với lý do: Ông Trường đã được hưởng chế độ bệnh binh hàng tháng nên không được cộng nối thời gian trong quân đội. Vì vậy, ông chỉ được tính 19 năm 5 tháng tham gia BHXH trong quá trình công tác, chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu nên yêu cầu ông Trường chờ hướng giải quyết từ BHXH thành phố. Tuy nhiên đến tháng 2/2014 ông Trường
Cha mẹ tôi đứng tên đồng sở hữu một căn nhà theo giấy chứng nhận do UBND quận cấp. Trước 1975, nhà này do ông nội tôi thuê lại của chủ phố và ở chung với tất cả con cháu. Năm 1975, ông bà tôi cùng một số con cái đi kinh tế mới, chỉ còn lại gia đình tôi và một người chú (chuẩn bị xuất cảnh định cư). Năm 1984, Nhà nước hóa giá nhà và cha mẹ tôi đã
năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.".
Điều 3, Nghị định 84/2007/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể như sau:
"Điều 3. Đất
Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì người khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không
thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch Ủy ban nhân
phường và Công an tỉnh, Công an Thành phố nơi bố mẹ em cư trú để thông báo về việc chồng em còn nợ tiền công ty, đề nghị các cơ quan này phối hợp thu hồi công nợ và truy tố nếu cần (chồng em có hộ khẩu thường trú ở Hà Nội, còn em vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú ở Hà Tĩnh cùng bố mẹ em). Trong khi đó, công ty đang nợ lương chồng em hơn 4 năm trời. Vì là
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định tại Điều 20 và Điều 23 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi năm 2004 và năm 2005), cụ thể như sau:
"Điều 20. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền:
1- Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
Là một vùng ven thành phố nhưng xã HT còn nhiều khu đất chưa sử dụng. Với mục đích tăng hiệu quả sử dụng đất, tăng nguồn thu cho ngân sách, Uỷ ban nhân dân xã HT đã ban hành Chỉ thị số 15/2006/CT-UB về việc tăng cường quản lý, sử dụng đất công trên địa bàn xã. Trong Chỉ thị này có quy định như sau: “Đối với đất công giao cho hộ gia đình, cá