Tính lãi theo khế ước vay
1. Về thời hiệu yêu cầu thi hànhh án:
Nội dung vụ việc nếu đúng như bạn nêu thì vụ việc này đã được cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của Ngân hàng từ năm 2004 đối với bản án năm 2003 của Tòa án, tuy nhiên việc thi hành án chưa thi hành được do bị tạm đình chỉ để giải quyết theo thủ tục phá sản. Vì thế, người được thi hành án đã làm đơn yêu cầu thi hành án trong thời hiệu thi hành án nên không hết thời hiệu yêu cầu thi hành án.
2. Về mức lãi suất:
Năm 2010, Tòa án đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp A thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành bản án nêu trên. Việc thi hành án này bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi, do đó lãi tính trong cả thời gian tạm đình chỉ thi hành án.
Căn cứ quy định tại khoản 1 mục IV Thông tư liên tịch số 01-TT/LT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản thì để bảo đảm quyền lợi cho bên được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, tiền phạt), toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp được hướng dẫn tại khoản 3 phần 1 Thông tư này về các khoản vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng. Khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án.
Do bản án này giải quyết việc vay tiền giữa doanh nghiệp A và Ngân hàng B là tổ chức tín dụng theo khế ước. Do vậy, tính lãi trong trường hợp này phải tính theo hướng tại khoản 3 phần 1 Thông tư này, cụ thể: Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp toà án đều không phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao dịch cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Vì thế, theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Các tổ chức tín dụng hiện nay thì vụ việc này lãi tính theo khế ước mà bản án của Tòa án đã tuyên.
Thư Viện Pháp Luật