Tranh chấp đất khi mua chung sổ đỏ
Theo quy định tại Điều 692 Bộ luật Dân sự và Khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ thì Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Do đó, khi việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bạn và bà Hồng chưa thực hiện thủ tục đăng ký chuyển quyền sử dụng đất thì chấp hành viên có cơ sở để thực hiện kê biên quyền sử dụng đất mà bạn đã mua từ Bà Hồng (Điều 110 Luật Thi hành án dân sự năm 2008).
Theo Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008: “Trường hợp cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người khác thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Chấp hành viên yêu cầu mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì tài sản được xử lý để thi hành án theo quy định”.
Vì vậy, khi chấp hành viên thực hiện kê biên quyền sử dụng đất Bà Hồng đã bán cho bạn, bạn có quyền thực hiện khởi kiện đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Chấp hành viên yêu cầu để yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của bạn. Nếu được công nhận, bạn sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
Trường hợp Tòa án không công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bạn và Bà Hồng thì bạn và Bà Hồng phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và bạn có quyền yêu cầu Bà Hồng bồi thường thiệt hại (Điều 122 và Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005).
Thư Viện Pháp Luật