Cách tính thời gian trả trợ cấp thôi việc cho người lao động
- Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động:
Theo Điều 37 BLLĐ 2012 người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong 7 trường hợp sau:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
Và người lao động phải tuân thủ thời gian báo trước đối với hợp đồng không xác định thời hạn ít nhất 45 ngày.
- Về trợ cấp thôi việc:
Điều 48 Trợ cấp thôi việc BLLĐ qui định: “1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương”.
Ông đã làm việc thường xuyên theo hợp đồng lao động là: 8 năm. Khi chấm dứt hợp đồng, ông chấm dứt đúng quy định và tuân thủ thời gian báo trước. Vì vậy, công ty phải trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên mỗi năm làm việc được trợ cấp 1 nửa tháng tiền lương.
Thời gian để tính trợ cấp thôi việc tính từ năm 2007- 2014 , theo quy định tại khoản 2 Điều 48 là: Thời gian đã làm việc thực tế trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Trường hợp, tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc có tháng lẻ (kể cả trường hợp người lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên nhưng tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc dưới 12 tháng) thì được làm tròn như sau: Từ đủ 06 tháng đến dưới 12 tháng làm tròn thành 01 năm (Theo TT 17/2009).
- Về thời gian 2 năm 2007- 2008 người sử dụng lao động chưa tham gia BH thất nghiệp: Theo khoản 2 Điều 48 BLLĐ 2012: Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.
Đối chiếu với các quy định trên, ông thuộc trường hợp nhận trợ cấp thôi việc theo tổng thời gian làm việc thực tế trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Như vậy, bộ phận nhân sự trả lời ông không được trợ cấp thôi việc 2 năm 2007, 2008 là sai.
Thư Viện Pháp Luật