Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 6 triệu, có tố cáo được không
Điều 140 BLHS quy định về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng (nay là bốn triệu đồng) đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một (nay là bốn triệu đồng) triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Điều luật này được sửa đổi năm 2009 như sau: "Sửa đổi cụm từ "một triệu đồng" thành cụm từ "bốn triệu đồng" tại khoản 1 và bỏ từ "trên" tại điểm d khoản 2 Điều 140".
Như vậy, việc bạn trả tiền 6 trđ hộ Hương và yêu cầu Đạt hoàn lại số tiền đó cho bạn khi Hương trả tiền là một giao dịch dân sự (hợp đồng). Do vậy nếu sau đó Đạt không hoàn trả tiền cho bạn thì Đạt có thể phạm Tội lạm dụng tính nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS nêu trên. Tuy nhiên, nếu Đạt không thừa nhận là đã nhận 6 trđ của bạn thì bạn và Cơ quan tố tụng có trách nhiệm chứng minh là Đạt đã nhận được tiền rồi dùng thủ đoạt gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của bạn thì mới có đủ căn cứ xác định là Đạt đã phạm tội theo quy định tại Điều 140 BLHS nêu trên. Trong việc này bạn nến yêu cầu Đạt viết giấy nhận nợ để làm căn cứ giải quyết. Nếu Đạt cố tình không trả thì bạn có thể báo công an để Đạt phải chịu chế tài của pháp luật.
Thư Viện Pháp Luật