Chứng thực chứng minh nhân dân đã hết hạn sử dụng
Một giấy tờ, văn bản được chứng thực bản sao từ bản chính khi có đủ hai điều kiện:
1. Người yêu cầu xuất trình bản chính theo quy định tại khoản 5, Điều 2 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 06/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch: “Bản chính” là những giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp lần đầu, cấp lại, cấp khi đăng ký lại; những giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập có xác nhận và đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
2. Bản chính đó được dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao; có nghĩa bản chính đó không vi phạm một trong các trường hợp sau đây:
“1. Bản chính bị tẩy xóa, sửa chữa, thêm, bớt nội dung không hợp lệ.
2. Bản chính bị hư hỏng, cũ nát, không xác định được nội dung.
3. Bản chính đóng dấu mật của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc không đóng dấu mật nhưng ghi rõ không được sao chụp.
4. Bản chính có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội; tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam; xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức; vi phạm quyền công dân.
5. Bản chính do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc chứng nhận chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định này.
6. Giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập nhưng không có xác nhận và đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền” (Điều 22 Nghị định 23/2015/NĐ-CP)
Căn cứ hai điều kiện trên đây thì chứng minh nhân dân đã hết hạn sử dụng không phải một trong các trường hợp không được chứng thực bản sao từ bản chính. Do đó, việc từ chối của cán bộ tư pháp hộ tịch là chưa đúng quy định pháp luật.
Thư Viện Pháp Luật