Điều 27 Khoản 1 Luật HN&GĐ 2000 quy định:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.”
Điều 28 Khoản 1, Khoản 3 Luật HN&GĐ 2000 quy định:
“1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.”
Theo đó, thửa đất của gia đình ông C được hình thành năm 1966, trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng nên được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Việc giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất của vợ chồng phải có sự đồng ý của cả vợ và chồng.
Việc chuyển nhượng 1,2m vào năm 2005 mặc dù có sự xác nhận của UBND xã nhưng đó lại là ý kiến riêng của ông C mà chưa có sự đồng ý của bà C. Vì vậy, giao dịch đó được xác định là vô hiệu.
Hơn nữa, Điều 692 BLDS quy định: “Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai”. Vì vậy, sau khi tiến hành chuyển nhượng, hai bên chưa làm thủ tục đăng ký sang tên quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất chưa được xác định là đã chuyển giao.
Thứ hai: Về quyền có lối đi qua bất động sản liền kề
Điều 275 BLDS 2005 quy định: « 1. Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thoả thuận khác.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.
3. Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù. »
Theo đó, bạn có quyền được thỏa thuận về lối đi qua bất động sản liền kề thuận tiện và hợp lý nhất. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên. Trong trường hợp hai bên không thể thoả thuận được về việc hình thành lối đi qua bất động sản liền kề thì bạn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Thứ ba : Về việc giải quyết tranh chấp
Điều 203 Khoản 1, Khoản 2 Luật Đất đai 2013 quy định :
« Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại UBND cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; »
Trong tình huống, bạn không nêu rõ 2 thửa đất trên có giấy chứng nhận hay chưa, vì vậy bạn căn cứ vào quy định nêu trên để lựa chọn cách thức giải quyết. Căn cứ vào các quy định của pháp luật về Dân sự, Đất đai hiện hành, cơ quan có thẩm quyền sẽ có quyết định giải quyết tranh chấp.